Mãi mãi
tuổi 20
----o0o----
Chỉ là tình cờ thôi,đọc trên báo
Tuổi trẻ loạt bài viết" Mãi mãi tuổi hai mươi" sao cảm thấy ý
nghĩa và cảm động thế,rất thật,rất bình dị, đọc những dòng nhật
kí đó mà thấy phản phất hình ảnh của mình,cũng 2 năm sống trong
môi trường quân đội,cũng từng có những suy nghĩ như Anh, tất
nhiên thời hoà bình,cái lý tưởng và ý nghĩa cuộc sống có chút gì
đó thay đổi,tất nhiên rồi, nhưng dẫu sao cũng là những bài
viết,những tình cảm rất thật,mình trân trọng những gì mà Anh
Thạc đã viết, sao mình không đọc sớm hơn nhỉ,biết từ lâu rồi
nhưng quả thật không quan tâm lắm,mãi đến sáng hôm nay mới đọc
và thật sự cuốn hút, nói nhiều quá rồi, bắt đầu thôi nào:
Tiểu sử :
Nguyễn Văn Thạc sinh năm 1952 tại làng Bưởi, Hà Nội trong một
gia đình thợ thủ công.
Năm lớp 10 (niên học 1969-1970), Nguyễn Văn Thạc đã đoạt giải
nhất cuộc thi học sinh giỏi văn toàn miền Bắc. Với thành tích
học tập kể trên, Thạc đã được ban tuyển sinh Hà Nội xếp vào diện
đi đào tạo tại Liên Xô. Nhưng theo chủ trương chung, phần lớn
những nam học sinh xuất sắc năm đó đều phải ở lại để tham gia
quân đội.
Trong khi chờ gọi nhập ngũ, Thạc đã xin thi và đỗ vào khoa toán
- cơ của Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội. Vừa học năm thứ nhất, anh
vừa tự học thêm để hoàn thành chương trình năm thứ hai và được
nhà trường đồng ý cho lên học thẳng năm thứ ba...
Nhưng đó cũng là thời gian cuộc kháng chiến chống Mỹ đang bước
vào giai đoạn mới. Chiến trường miền Nam ngày càng gay go và ác
liệt. Hàng ngàn SV các trường đại học phải tạm ngừng việc học
tập để bổ sung lực lượng chiến đấu cho quân đội. Nguyễn Văn Thạc
đã nhập ngũ ngày 6-9-1971...
Và đây:
Viết tiếp những dòng tươi vui...
Nếu như tôi không về, ai sẽ thay tôi viết tiếp những dòng này.
Tôi mong muốn những dòng tiếp theo sẽ là những dòng tươi vui và
đông đúc.......
Vào bộ đội :Hôm nay, đi bên sông,
dưới cái nắng chang chang, trên vai là balô con cóc của Trường
Sơn. Không thể nói là nhẹ được. Quai đeo thít vào vai, ép lồng
ngực lại. Đau và bỏng rát, khó thở. Đè lên hông, ép vào lưng,
ướt đầm đìa là mồ hôi ta đấy. Ta đặt balô, và cười luôn được. Ừ,
cuộc đời ta là thế. Phải cười và phải vui. Bài hát ta yêu là
Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây...
Chuyện đau lòng Nặng quá và xa lắm.
Được nghỉ là ngã luôn xuống vệ đường, không đủ sức tháo người ra
khỏi balô nữa. Nếu như có P. ở đây, P. sẽ nghĩ gì ? Có thương
mình không nhỉ? P. sẽ nghĩ gì khi người bạn của riêng P. nằm há
hốc mồm mà thở, rời rã chân tay và ngủ thiếp đi trên cánh đồng
khô đầy bụi và chang chang nắng... Nhưng nếu có P. ở đây có lẽ
mình cũng không nằm thế và sẽ đi bắt chuồn chuồn!...
Những ngày buồn Đừng ai xem những dòng
này. Vả lại cuốn nhật ký này chắc cũng chẳng bao giờ có ai xem
được. Tôi sẽ chỉ giữ những cảm xúc này cho tới lúc vĩnh biệt
miền Bắc thân yêu đi chiến đấu, và sẽ biến những trang giấy vô
duyên này thành ngọn lửa hun cay sè mắt tiễn biệt tôi. Vì chắc
chắn chẳng có ai tiễn đưa tôi cả. Tôi đi và gửi tấm thân này ở
một miền đất nào đấy mà tôi biết hoặc chưa thể biết tên.....
Bức thư tình và lời hẹn hò lớn lao
Nồng nàn, trìu mến, những linh cảm buồn, và lời hẹn 30-4 cứ trộn
lẫn vào nhau trong những trang thư Nguyễn Văn Thạc gửi cho người
bạn gái Phạm Thị Như Anh. Những bức thư này, nhà thơ Đặng Vương
Hưng gửi cho Tuổi Trẻ, không có trong nhật ký...
Chuyện chưa kể trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi
Không... Mình tỉnh thế này tức là...
sắp chết rồi... Chỉ tiếc là không còn chiến đấu được nữa... Bao
dự định còn dang dở...
Đêm trắng
(Tặng Như Anh - tác giả của 12 bài thơ Đêm)
Đêm trắng trong là đêm của em
Đèn thành phố và sao trời lẫn lộn
Đêm của anh xếp kín đầy bom đạn
Pháo sáng chập chờn trộn trạo với sao sa.
Đêm trắng trong như màu sắc thiên nga
Đêm âu sầu như ngôi nhà đổ nát
Đêm đen ấy mà vô cùng dịu mát...
Bâng khuâng gì trong ban đêm em ơi?
Đêm của anh trong tầm bom rơi
Không thể ngủ nên đêm thành đêm trắng
Đêm bão thép chất chứa nhiều sâu lắng
Bà mẹ sinh con trai trong mờ tối căn hầm.
Những ban đêm thành cột mốc tháng năm
Đêm xanh vợi cũng trở thành đêm trắng
Đêm thao thức đón chờ ánh sáng
Đêm của chúng ta ấp ủ những mặt trời.
Quảng Bình, 11-7-1972
(Đây là bài thơ cuối cùng Nguyễn Văn Thạc gửi
cho người thân. 19 ngày sau anh hy sinh - Đ.V.H.)
Viết tiếp những
dòng tươi vui...
Nhân đọc bài Trang sách cuộc đời anh"
Trong balô của anh lính trẻ Nguyễn Văn Thạc có cuốn nhật
ký đã ghi ngày hẹn trở về là ngày 30-4-1975. Và như một
điều kỳ lạ, ngày đó đến chính xác không ngờ, nhưng anh
cũng như bao đồng đội khác đã không có mặt trong ngày
chiến thắng.
Anh đã mãi mãi nằm lại chiến trường. Anh đã hi sinh cho
ngày chiến thắng của dân tộc, máu xương anh đã hòa vào
non sông đất nước. Tổ quốc mãi mãi ghi nhớ sự hi sinh
của các anh, nhân dân mãi mãi ghi nhớ sự hi sinh của các
anh.
Những dòng nhật ký của anh Nguyễn Văn Thạc bên cạnh
những nỗi niềm, tình cảm riêng tư, còn đau đáu một trăn
trở: Nếu như tôi không về, ai sẽ thay tôi viết tiếp
những dòng này. Tôi mong muốn những dòng tiếp theo sẽ là
những dòng tươi vui và đông đúc.
Trăn trở của anh Thạc là trăn trở mà thế hệ trước muốn
nhắn nhủ tuổi trẻ bây giờ về những điều mong muốn mà họ
đã không thể thực hiện được vì hoàn cảnh chiến tranh.
Những dòng tươi vui và đông đúc đó là gì nếu như không
phải là mong muốn về một đất nước thanh bình yên ấm, một
đất nước của hạnh phúc và tình yêu. Hạnh phúc và tình
yêu mà anh, bạn bè đồng đội anh cùng nhiều thế hệ thanh
niên khác đã không được trọn hưởng.
Thế hệ thanh niên ngày nay được sống trong một đất nước
độc lập, tự do và hòa bình. Nền độc lập, tự do và hòa
bình được đánh đổi bởi không biết bao nhiêu xương máu
của các thế hệ cha anh đi trước. Vì vậy, thế hệ trẻ hôm
nay phải biết quí trọng hơn cuộc sống mình đang có và
hãy đóng góp phần mình để viết tiếp những dòng mới,
những dòng tươi vui của lịch sử dân tộc
Vào bộ
đội....
Ngày
2-10-1971, 28 ngày sau khi nhập ngũ, Nguyễn Văn
Thạc ghi những dòng nhật ký đầu tiên. Cho đến
tháng 5-1972, trong suốt tám tháng vừa hành quân
vừa ghi chép, anh viết được 240 trang sổ tay.
Những câu văn vội vàng và bụi bặm, anh viết
vậy.
2-10-1971
Nhiều lúc mình cũng không ngờ nổi rằng mình đã
đến đây. Không ngờ rằng trên mũ là một ngôi sao.
Trên cổ áo là quân hàm đỏ. Cuộc đời bộ đội đến
với mình tự nhiên quá, bình thản quá và cũng đột
ngột quá.
Thế là thế nào? Cách đây ít lâu, mình còn là
sinh viên. Bây giờ thì xa vời lắm rồi những ngày
cắp sách lên giảng đường, nghe thầy Đường, thầy
Đạo... Không biết bao giờ mình sẽ trở lại những
ngày như thế. Hay chẳng còn bao giờ nữa! Có thể
lắm. Mình đã lớn rồi. Học bao lâu mà đã làm được
gì đâu, đã sống được gì đâu? Chỉ còm cõi vì
trang sách, gầy xác đi vì mộng mị hão huyền.
Hai mươi tám ngày trong quân ngũ mình hiểu được
nhiều điều có ích. Sống được nhiều ngày có ý
nghĩa. Dọc đường hành quân, có dịp xem lại lòng
mình, soát lại lòng mình.
Mình bắt đầu sống có trách nhiệm từ đâu, từ lúc
nào? Có lẽ từ 9-3-1971, tháng ba của hoa nhãn
ban trưa, của hoa sấu và hoa bằng lăng nước.
Những người bạn thân yêu của mình đã lần lượt đi
học xa hết cả rồi. Mỗi người một phương. Các bạn
đã đi lên phương Bắc. Còn mình, sẽ đi về phương
Nam...
Đêm Hà Bắc thật thanh bình. Thèm quá, nghe một
tiếng thì thào của cánh gió trên đồi bạch đàn...
Mình đã sống trên 20 ngày bên hồ cá Yên Duyên,
Yên Sở. Ở đó có những đường cây đẹp tuyệt. Mình
đã chụp tấm ảnh bộ đội đầu tiên dưới một gốc
dừa, sau lưng là hồ cá. Hoàng hôn thong thả thay
màu nước. Và ngôi sao Hôm trầm tư, kiêu hãnh đã
mọc trên trời. Cuộc đời bộ đội đâu dễ dàng như
thế.
Mình đã khóc, nước mắt giàn giụa, khi các bạn
tiễn mình đi, khi buổi lễ kết thúc, khi bài Quốc
ca rung bầu không khí trong lành trên Trường
Tổng hợp. Bản nhạc này đây, bao lần mình đã
nghe, đã cúi đầu suy nghĩ. Nhưng hôm nay mới
thực hiểu, thực cảm một điều giản dị: Bài Quốc
ca của ta, của ta!
Khóc, không phải vì hèn yếu, không phải vì buồn
bã, mà vì xúc động. Vì buổi chia tay này thiêng
liêng quá. Những người bạn thân yêu nhất của
mình không thể tiễn mình đi được. Và bàn tay ấy,
và đôi mắt ấy, giọng nói ấy... Lên xe rồi, xe nổ
máy. Xe VN sản xuất, tiếng động cơ như tiếng tim
mình vậy.
Nghẹn thắt vì một cảm giác khó tả, mình ngước
nhìn lần cuối cùng cánh cửa sổ, nơi hằng ngày
mình bò ra, nhìn xuống lòng đường. Khoảng trời
nhỏ của riêng mình đó. Một hôm nào, những hôm
nào mình mong chờ nhìn thấy bạn của mình đạp xe
qua, để mình gọi... Bây giờ, là chia tay, xe lăn
bánh, êm ru, xe đi êm, mà bọn mình xô vào nhau,
chen nhau thò tay ra cửa.
Xe ơi, lao nhanh hơn, cho ta chóng tới gia đình
lớn. Nơi ta gửi gắm cả thời thanh xuân của
mình...
Hơn cả khi trên tay phập phồng tờ quyết định.
Vui sướng, tự hào, cảm động làm sao khi trên
người ta là bộ quân phục xanh màu lá. Anh sinh
viên quen màu trắng áo của cánh cò, quen màu
xanh da trời tháng nắng... Mình trút bỏ không
thương tiếc, và trìu mến khoác lên mình màu xanh
ấy. Màu xanh của núi đồi và thảo nguyên, của ước
mơ và hi vọng. Màu xanh bất diệt của sự sống.
9g30 phải vào màn, nhưng ta thức trọn một đêm,
với bốn bề đang rạng sáng, mặt trời mọc, và em
bé đã ríu rít ở hàng ô rô xén gọn. Một tiếng
võng kêu, một vệt nắng kẻ ở ngoài hiên, một con
nhện giăng tơ trên cành ổi... Có gì khác với nơi
ta ở, nơi ta gửi gắm tuổi thơ.
Ta đã bao lần đi bên sông Tô Lịch, trước kia ta
khó chịu vì mùi bùn oi nồng... Ta đã mấy lần
hành quân bên sông Tô Lịch, ta yêu sông vì bọt
tăm sủi, vì màu xanh non, tươi trẻ có công vun
đắp của dòng sông. Có phải lòng sông đã quên
mình nhơ bẩn, đã chịu lòng mình mang mùi vị ấy
để đem cho đời những cọng rau muống tươi kỳ lạ,
để đem màu hồng tươi cho thành phố. Sông Tô ơi,
mai trở về, ta khơi lại dòng sông, cho tuổi thơ
vẫy vùng, cho con thuyền anh chở em đi, đi vòng
quanh thành phố...
Hôm nay, đi bên sông, dưới cái nắng chang chang,
trên vai là balô con cóc của Trường Sơn. Không
thể nói là nhẹ được. Quai đeo thít vào vai, ép
lồng ngực lại. Đau và bỏng rát, khó thở. Đè lên
hông, ép vào lưng, ướt đầm đìa là mồ hôi ta đấy.
Ta đặt balô, và cười luôn được. Ừ, cuộc đời ta
là thế. Phải cười và phải vui. Bài hát ta yêu là
Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây...
Yên Sở ơi, ta yêu Yên Sở như làng quê ta vậy.
Nơi trú quân đầu tiên của đời ta. Nơi ta gọi bạn
của mình là đồng chí. Nơi em thơ gọi ta là chú
bộ đội, và những cô gái làng gọi ta: Chào các
anh bộ đội.
Em đừng cười anh vì bộ quân phục thùng thình. Mẹ
ta nghèo, rau cháo nuôi ta, đau khổ bốn nghìn
năm, chắt chiu từng hạt gạo nuôi ta. Để bây giờ
ta lớn. Phải lớn lên, phải to ra cho kịp tầm cao
của lịch sử. Cánh tay này sẽ bóp nghẹt cổ quân
thù.
Hành quân từ 5 giờ chiều đến 9 giờ đêm, đẹp lắm.
Trăng đầu tháng còn đỏ quạch, cứ gợi cho ta nhớ
một cánh buồm. Đấy, cánh buồm đỏ thắm, đựng đầy
gió, gió cuốn những ngôi sao đêm, ùa vào lòng
thuyền và đẩy thuyền trôi trong tâm tưởng... Ngủ
bên bờ một dòng sông, có những đường dừa thật
đẹp.
Trời trong quá, dây điện chăng như những dòng kẻ
của một trang vở học trò. Đừng bấm đèn trêu họ,
cứ để họ nói chuyện với nhau. Anh con trai sắp
xa người bạn của mình. Cô ta lại về trường học
tiếp. Chỉ còn vài tiếng nữa thôi là còi tàu, là
chuyển bánh. Anh dặn gì cô ấy, có lẽ chẳng dặn
gì đâu, và chỉ mỉm cười... Cậu nào đã cất tiếng
hò:
Tiếng ai như tiếng chuông vàng
Tiếng ai như tiếng cô nàng của anh...
Còn tiếng này thì đúng là giọng anh Châu rồi,
anh Mộng Châu:
Anh yêu em lắm em ơi,
Nhưng anh chẳng dám ngỏ lời với em...
Lính khoái, cười khúc khích... Những vì sao dưới
sông cũng va vào nhau... Những cánh dừa cũng nắm
tay nhau tinh nghịch bay qua bầu trời thanh
bình. Tiếng động cơ như xay lúa.
Đêm đẹp vô cùng, ta lắng nghe đất thở. Anh bạn
nằm bên rọi đèn pin tìm gì, có phải anh tìm con
dế đang cần cù dạo bản nhạc đêm của Pritsvin?
Không cưỡng nổi, ta lấy giấy và viết thư cho Như
Anh...
4-10-1971
Anh hẹn em cuối tuần/Chờ nhau nơi cuối phố/Biết
anh thích màu trời/Em đã bồi hồi, chọn màu áo
xanh/Sáng chủ nhật trời trong/Nhưng trong lòng
dâng sóng/Chẳng thấy bóng anh sang/Đêm thứ hai
thu vàng/Đêm thứ ba thu tàn/Mùa đông thứ tư
sang...
Bạn, đừng hát nữa, mà làm nao lòng bộ đội. Ta
bước trên đồi bạch đàn, dưới chân là đá sỏi...
Chao ôi, bầu trời xanh quá, màu áo thân yêu của
ta đã xếp lại nơi nhà...
... Có phải đời ta là cầm AK đánh giặc. Đứng
trên đồi phun lửa vào kẻ thù, dạn dày, thầm
lặng... chẳng cần ai biết đến đâu. Rồi lúc nào
ta chết, chỉ cầu xin một điều, trên nấm mồ của
ta là cây bạch đàn; cây bạch đàn mảnh dẻ...
Nằm trong lòng đất, giá còn được nghĩ, ta sẽ làm
thơ, ừ, làm thơ, làm toán... Chà, lập dị, lập
dị, ngớ ngẩn đến thế nữa cơ.
Sao bây giờ ghét đời sinh viên đến thế. Thõng
thẹo và ọp ẹp. Phải sống khỏe mạnh, dữ dội trong
lửa đạn.
Dân quý anh bộ đội. Bọn mình đi xin tre về làm
nhà ở. Tre đấy, ngoài vườn, anh cứ ra mà chặt.
Tre đực, tre cái, tre bánh tẻ đan lóng đôi, lóng
mốt, đan sọt đeo đá sau lưng. Cây tre VN, lòng
bà mẹ VN, có phải bây giờ ta mới hiểu đâu. Nhưng
bây giờ ta mới được nhìn, được thấy... |
Chuyện đau
lòng.....
15-11-1971
Thằng Mỹ, nó là cái gì mà mơ hồ như
thế? Đi bộ đội, mình cảm thấy hơi mông lung
trong việc nhìn nhận kẻ thù. Hố bom còn toác ra
ở trên đồi. Và cảnh làng xóm tiêu điều, bị tàn
phá ngày 29-2-1968, ta đâu có quên. Mặt mũi
thằng Mỹ thế nào? Hẳn đó cũng là khuôn mặt người
bị bóp méo xộc xệch. Hẳn đó là bộ mặt nhăn nhúm
trước ánh sáng mặt trời.
Đêm ấy, thật đau lòng. Hồi chiều, bị ném 40 quả
bom. Điện bị đứt lung tung. Làng xóm chìm trong
tang tóc và bóng đêm. Ở ngay trước ngõ là một
bát hương hiu hiu khói. Anh Phúc bị bom tiện đứt
cả chân tay, nằm trong chiếc quan tài đỏ, ngọn
đuốc nứa thổi phừng phừng, cái xe bò lăn lộc
cộc... Sao giống chiếc quan tài như thế.
Ta ngồi đây, thanh bình như thế. Nhưng ở cuối
trời Tổ quốc, bao nhiêu người con ưu tú của dân
tộc đang đổ máu, đang giập gãy từng khúc xương,
đang bị kẻ thù đày đọa và các đồng chí của ta,
anh giải phóng quân kiên cường đang nín thở đợi
giờ xung trận, đang đói rét và đau nhói vết
thương trên một cánh rừng già.
Vậy mà, lại đến giờ đi ngủ. Những cơn gió liu
riu trên cành tre đưa ta vào cơn mơ - Ta lại trở
về với cái ngõ nhỏ của mình... Lạc lõng ư? Có lẽ
nào!
Ta biết giấu mặt vào đâu, vào gấu quần hay gấu
áo, khi đường Trường Sơn không có dấu chân ta?
Khi cả cuộc đời ta chưa có cái niềm vui mãnh
liệt của người chiến thắng, cắm cờ Tổ quốc trên
cả nước thân yêu.
26-11-1971
Cột cây số chỉ Bắc Giang 22km. Tiến
về phía đó... 600 con người gò lưng và bước.
30kg trên lưng, đường bụi... Phải, lần nào hành
quân cũng vậy. Không còn nghĩ ngợi được gì nữa.
Thiên nhiên thu hẹp bằng nắp vung dưới gót chân
người đi trước. Không gian như co, như dồn, như
ép, ép mạnh vào khắp cơ thể, vào cổ, vào vai,
vào lưng, vào chân. Mệt lắm, nặng lắm. Sự thật
gồ ghề biết chừng nào.
Ta như lần tay trên cạnh sắc lạnh của cuộc đời,
và nhớ da diết đến P. (*); dường như đối lập với
cái khô khỏng và dữ dội ấy là hạnh phúc êm đềm
khi đứng bên P.. Ôi, đôi vai tròn, nhỏ nhắn, gò
má và đôi mắt mềm đằm thắm biết chừng nào...
Nhìn mãi, nhìn mãi mà không thấy P. đâu. Chỉ
thấy bụi, cát, ồn ào và nặng nề, mỏi mệt. Chỉ
thấy gánh nặng của đời đè gí hai vai.
Nặng quá và xa lắm. Được nghỉ là ngã luôn xuống
vệ đường, không đủ sức tháo người ra khỏi balô
nữa. Nếu như có P. ở đây, P. sẽ nghĩ gì ? Có
thương mình không nhỉ? P. sẽ nghĩ gì khi người
bạn của riêng P. nằm há hốc mồm mà thở, rời rã
chân tay và ngủ thiếp đi trên cánh đồng khô đầy
bụi và chang chang nắng... Nhưng nếu có P. ở đây
có lẽ mình cũng không nằm thế và sẽ đi bắt chuồn
chuồn!
29-11-1971
Ngày lên đường nhập ngũ của sinh viên
Trường ĐH Tổng hợp (ảnh đăng trên báo Nhân Dân)
Bắt đầu vào làng, chỗ này là Đông Du thì phải.
Dân thưa thớt và bộ đội thì đông hơn dân nhiều.
Có người tính tỉ lệ 9/10. Kể thì hơi ngoa. Nhưng
cũng có lý đấy. Tiểu đoàn trưởng đứng đợi dưới
một gốc tre. Cán bộ của mình cũng chẳng khác gì
chiến sĩ, cũng balô, cũng gạo và súng. Chỉ khác,
các đồng chí đó đi thẳng người và bước vững vàng
hơn lính nhiều. Cũng phải thôi, đánh Pháp rồi
đánh Mỹ, bao nhiêu năm đi trên con đường lửa,
con đường lớn của dân tộc.
Sao con đường dài thế, dài mãi.
Đến ngã ba, chưa gặp giao liên, bộ đội ùn lại và
cúi gập người cho balô đỡ siết vào vai. Khát
quá, nhưng chỉ có nước ao. Biđông chưa được
phát. Dường như cấp trên cố ý tạo ra tình huống
này - Rèn! Chao ôi, cái chữ đáng ghét thế!
Thôi, đây rồi, tụi quỉ, tiền trạm gì mà hậu
thế! Mãi bây giờ mới gặp. Và thế là chỉ còn
3km. Quên đi, cái balô ác nghiệt trên vai, cái
nắng trên đầu, cái nóng, cái mệt trong người và
hãy nghĩ đến cái dịu dàng, thắm thiết của đôi
mắt N. Anh, của đôi vai N. Anh, của hai bàn tay
thấm mát hơi xuân...
Đỉnh dốc là chỗ ở, vậy mà 2/3 quân số nằm lăn ở
chân đồi, cúi mãi, cúi mãi, tưởng như muốn đi
bằng cả hai tay và hai chân. Bò lên, bò lên!
Nhưng, thế còn sung sướng lắm. Thế mới chỉ là
cái vất vả, cái gian khổ về cơ thể, về vật chất.
Còn cái khổ hơn, cái đau đớn về tinh thần là sự
thờ ơ của bà con trong xóm đồi.
Thấp thoáng trong nhà lưng chừng dốc là những
cặp mắt nghi ngờ, hơi xa lạ. Ta tự hỏi: Họ là
ai, có phải là bà mẹ Việt Nam từ ngàn đời thương
anh bộ đội? Có phải các cháu nhỏ, các em thơ ríu
rít quấn lấy tay anh? Mà sao bàng quan thế, dửng
dưng thế... Ôi chao là buồn...
Họ nhìn quanh, lạnh lẽo và thụt vội vào nhà
trong, cánh cửa tre hạ xuống, chó sủa ran...
Bọn mình mệt quá rồi, không đủ sức đứng dậy vào
nhà nữa và nằm lăn dưới bóng tre mà nghỉ và kiếm
cách vào nhà.
Không gian im ắng quá. Và chẳng thấy lũ trẻ chơi
trong ngõ nhỏ. Xung quanh chỉ toàn cây, tre,
chay, cây đen, cây mít. Cây um tùm như an ủi,
phải, cây lá này vẫn cây lá quê hương. Nó đâu
lạnh lùng với anh bộ đội...
Nghỉ chán, bọn mình chia nhau vào các gia đình
vận động. Bẩn quá, bẩn quá, nhà cửa có một thứ
mùi chua, mốc, mùi thời gian quá dài chưa quét
dọn. Nét đặc trưng là lắm ruồi và nhiều tàu há
mồm quá. Nhà nào ít nhất cũng năm đứa trẻ dưới
10 tuổi! Ồn ào và luộm thuộm, chứng tỏ mức độ
giác ngộ của dân chưa cao lắm.
Vào nhà nào họ cũng đuổi. Lắm lý do đến thế, nào
là : Đợi ông ấy về... Tệ hơn, có gia đình không
thèm tiếp và trả lời: Gia đình tôi chưa có ai đi
bộ đội nên không biết đối xử với các chú như thế
nào!
Bọn mình không biết nói sao nữa. Ra ư, thì chỉ
có bụi tre và đỉnh đồi thôi. Phải bám vào dân mà
sống! Bám lấy dân.
Thế là chưa được cơm cháo gì, bụng đói, mệt, bọn
mình vào nhà, giúp gia đình quét dọn, gánh nước,
xe tơ. Nhà ở trên đồi nên nước hiếm hoi. Phải
xuống chân dốc và ở đó có cái giếng chung của cả
làng.
Vừa làm vừa trò chuyện, vừa xin vào ở một góc
nhà đặt balô thôi. Mãi đến chiều họ mới cho vào
nhà, cho giường chiếu hẳn hoi và giục các chú
nấu cơm ăn.
Khi đó mới biết đơn vị trước ở đây làm mất uy
tín ghê quá, toàn đánh nhau, cãi nhau, đánh cắp
của nhau. 3/4 số xoong quân dụng bị mất, rồi
quân trang, quân dụng mất lung tung. Tệ quá.
Bậy bạ thế thì thôi. Nhưng hậu quả lại dồn lên
đầu bọn mình. Ngay đêm, đại đội họp cấp tốc trên
thửa ruộng còn trơ chân rạ. Phải gấp rút khôi
phục uy tín của quân đội.
Gia đình mình ở có chín người. Bác chủ nhà 55
tuổi rồi và ngày ngày vác thuyền nan đi đánh
lưới trên sông. Tụi nhóc còn nhỏ, cô gái thứ hai
tên là Thà, 17 tuổi, đi làm suốt ngày và ban đêm
cũng chẳng về. Nhưng nếu cô ta về thì cả nhà
biết ngay vì cái mồm to và liến thoắng của cô.
Cái giọng chan chát nghe đến chói tai. Khổ cho
anh chàng nào vớ phải cô ấy suốt đời có lẽ chẳng
được nghe cô ấy thì thầm (!).
Còn tụi nhóc thì bẩn, bẩn lắm. Chân tay bọc một
lớp đất đen như da cóc. Toàn uống nước lã và
không bao giờ rửa tay cả. Đêm đi ngủ thì tót lên
giường, sáng dậy lấy khăn mặt còn ướt của người
lớn lau cuống quít và thế là mở đầu một ngày!
Mình rất không thích cái tò mò, cái ưa lục lọi
của tụi nhóc ấy. Đặt balô xuống là sà đến và nắn
cái nọ, sờ cái kia, chẳng ra làm sao cả. Nhất là
thằng Hành, học vỡ lòng, hư lắm.
Tế bảo: Phải rèn bọn này mới được. Bỏ một buổi
rủ chúng nó đi chơi và dặn dò: Các chú để súng
đạn trong balô, đừng đụng gì đến nó nổ...
Thế là ổn. Còn phải vệ sinh vệ sống cho các ngài
nữa chứ. Rõ khổ.
Nhưng cũng thấy thương gia đình và các cháu. Lỗi
ấy đâu phải vì bố mẹ hay vì bản thân chúng. Mà
vì thằng đế quốc, vì lụt lội. Vì kẻ thù của dân
tộc ở bên kia bờ Thái Bình Dương.Nhớ Hà Nội, nhớ
một người....
2-12-1971
Chưa bao giờ mình xa nhà lâu như thế
này, chưa bao giờ nhớ cha mẹ, anh em và bè bạn
như bây giờ...
Bọn nó trốn về nhiều, có lẽ vì không chịu được
cái cảnh nhớ nhung đáng sợ này. Từ đây ra đường
18 chỉ có một khoảng đồng. Ở xa này, nhìn ôtô,
xe đạp lăn từ tốn qua các thân cây mà muốn chạy
vù xuống đó.
Rồi Hà Nội, gia đình, đường Nguyễn Ái Quốc và
phố Nguyễn Du... Bao nhiêu điều hứa hẹn còn bỏ
dở, bản nhạc dừng lại ở âm da diết nhất... N.
Anh, giữ ngón tay yêu dấu ấy ở phím đàn và đừng
buông ra, đừng buông, nghe thấy không, N. Anh,
đừng mỏi mệt...
Không ai muốn cuộc đời mình phải buồn bã cả,
nhưng rất ít người trên đời này đạt được điều
mình mong muốn. Mất mát nhiều, nhưng cố gắng làm
sao cho mình khỏi thất vọng, khỏi mất nghị lực
luôn hun cháy lòng mình. Đó mới là điều quan
trọng.
Thư cho Phong, mình viết: Còn nhớ không Phong,
dạo lớp 10, Phong đọc trước lớp bài Đường chúng
ta đi khiến hai đứa mình cảm động. Ở cái cành ổi
đã nhẵn bóng vết tay mình, Phong với mình ao ước
được sống những giờ phút như thế. Giờ phút Phong
bảo con người với đất nước là một và người lính
trở thành con người lý tưởng của thời đại.
Mình gửi cùng lá thư là những đoạn Đường chúng
ta đi học thuộc từ hồi đi học. Phong có nhận
được không, qua Trường Sơn, qua dốc Bà Định, dốc
Nguyễn Chí Thanh, qua chặng đường quyết thắng.
Và trong bom đạn, Phong có trả lời câu hỏi mà
cuộc sống đặt ra...
Thường khi, do tác động tích cực của văn học và
sách báo tuyên truyền, người ta có suy nghĩ và
cảm xúc tiến bộ, khá mãnh liệt đằng khác. Nhưng
ít ai kiểm tra mình xem tình cảm và suy nghĩ đó
có thật là bản chất của mình hay không.
Có thật nó bắt nguồn rễ sâu xa từ tận cùng cảm
nghĩ, từ đáy lòng mình? Có ai tự kiểm tra mình,
tự kiểm tra cảm xúc và suy nghĩ của mình, xem
bản thân mình có lấy những rung cảm tốt đẹp đó
làm quan niệm sống, chứ không phải làm một thứ
đồ trang sức rủng roẻng?
Chính trị viên Các hỏi mình thích đi đâu. Mình
chỉ thích bộ binh, đánh nhau thế mới khoái và ít
bị phụ thuộc vào máy móc. Vả lại, đi bộ binh gần
dân hơn, biết nhiều điều thú vị hơn.
3-12-1971
Vẫn
như hôm qua, ngủ và chơi bời lêu lổng. Chán ngán
lắm rồi, bắt đầu đi lùng trong xóm.
Hết mía lại sắn, sắn ăn chóng no, chóng chán. Ở
đây chỉ có thế. Và nếu chán thì chịu, dân đi làm
đồng hết cả rồi, chẳng có ai ở nhà mà nói
chuyện. Quanh quẩn với cái sân phơi rơm rạ, với
cái vại chỉ hai gánh nước là đầy. Ngủ chán rồi
lại thức, lại nóng ruột.
Lại thêm ba người nữa tút về Hà Nội. Họ không
chịu nổi tình trạng nằm đợi ghê sợ này.
Lê Như Thanh và Đỗ Thành xin mãi cũng được về.
Thanh nó khoái lắm và vanh vách kể cho mình cuộc
sống đang phát triển của thủ đô. Nó không dám
đến trường vì sợ xúc động. Thanh bảo không dám
kể tình hình thật của đơn vị cho gia đình vì nó
sợ gia đình không yên tâm. Toàn bốc phét nào là
tập ít, ăn khỏe, sướng, vui... rồi triển vọng
binh, quân chủng cao xa...
Còn Thành thì khác. Anh ta tưởng bà mẹ bôn
lắm. Thế là kể ráo. Bà ngồi yên lặng nghe đứa
con trai nhỏ của mình thủ thỉ. Suốt bữa cơm bà
không nói không rằng. Và khi con đi, bà òa lên
khóc, đứng chắn ở cửa nhất định giữ nó ở nhà.
Thế đấy, mẹ mình chắc là không thế. Mẹ mình chưa
khóc bao giờ trong những lần tiễn con đi. Mình
lại nhớ câu thơ của Trần Vàng Sao, đại ý: Bao
nhiêu nước mắt mẹ thấm vào vạt áo, để đường con
đi không bị ướt... Mẹ mình dũng cảm lắm, biết hi
sinh lắm.
Nghĩ về Hà Nội là nghĩ về N. Anh, nghĩ đến những
ngày bên nhau đi trong hương đêm mùa hè, của đêm
mùa thu... Ta gặp nhau làm gì nhỉ? Ta nắm tay
nhau làm gì nhỉ? Ta siết chặt trong nỗi xúc động
làm gì... N. Anh bé nhỏ yêu dấu đêm nay ở đâu...
Thương N. Anh thật nhiều mà không biết nói sao,
không biết làm sao cả.
Tội nghiệp N. Anh, cứ phải buồn mãi, buồn dai
dẳng... Sao không vui với bạn bè mỉm cười. Mùa
xuân... đâu rồi? Đêm gần nhau nhất lại là đêm
chia tay. Hạnh phúc thả những đốm sáng bay lơ
lửng trên trời. Vũ trụ bao la quá mà tay N. Anh
nhỏ nhắn chừng nào...
Bao nhiêu đêm nằm mơ, mình trở lại buổi tối cuối
cùng, khi N. Anh dừng xe ở đằng sau và đặt nhẹ
bàn tay lên vai trái. Mình ngoảnh lại... thế rồi
không còn mơ được gì nữa, cứ trượt theo những
đường cong mềm mại... Mai, ta xa nhau rồi, vậy
mà có ai nói được với ai điều gì đâu, cứ mặc làn
gió thơm mùi đồng nội vuốt ve mái tóc...
Mới đó mà ta xa nhau, thật là kinh khủng. Có lẽ
nào tất cả chỉ là như thế. Có lẽ nào tất cả chỉ
là như thế và vĩnh viễn cũng chỉ là như thế. Có
lẽ nào đó là tột cùng hạnh phúc? Còn sau này chỉ
là đau khổ và mòn mỏi, hối tiếc...
Phải chi đừng gặp N. Anh thì bây giờ đỡ hối hận
biết bao. Dẫu có phải mất đi những tháng năm đẹp
đẽ ấy cho N. Anh bình yên và hạnh phúc.
Tội lỗi đó không bao giờ mình có thể tự tha thứ
cho được. Càng nghĩ nhiều càng thấy mông lung và
thương N. Anh, thương cả mình nữa. Trái tim ơi,
vỡ ra và đừng bao giờ rung nữa. Cho ta thảnh
thơi, cho N. Anh hạnh phúc... Buồn lắm, cuộc
sống riêng của mình. Càng nghĩ càng buồn, nhất
là trong những ngày này.
Bao giờ mình mới thoát khỏi sự chờ đợi đáng ghét
như hôm nay? Đi chiến đấu chắc say sưa và hào
hứng hơn chăng?
Thông bảo mình đi hỏa lực bộ binh. Mình thích
lắm. Nhanh nhanh mà đi B chứ không thì hết địch
đến nơi. Nghe phong thanh trên bộ lấy lính lái
xe tăng, tụi nó thích lắm. Thích gì cái con rùa
thép ấy, chỉ oai ở ngoài này thôi chứ khó mà
được vào trong ấy.
Đại đội trưởng Châu mới về, trẻ măng, 24 tuổi.
Anh là biệt động của Quảng Ngãi. Nghe kể dạo
tổng tiến công mà tiếc đứt ruột. Dạo ấy mình lớp
8 nhỉ, còn nhỏ quá.
7-12-1971
... Không ai phút này cảm thấy cô đơn
Nhưng da diết vẫn gợi về Hà Nội!
Phố nhỏ se se đang mùa gió nổi
Có chút gì xúc động mãi theo đi...
Bằng Việt nhỉ, ừ, Bằng Việt, trong một Mùa xuân
xa Hà Nội. Nhưng bây giờ lại đang là mùa đông.
Lẽ ra đang lạnh. Vậy mà chưa. Năm nay rét muộn
nên rét dữ. Không biết bao giờ mới như Trường
Phước Mãi hôm nay mới thực đông về...
Hôm 5-12, được về qua Hà Nội mấy tiếng đồng hồ,
mới cảm thấy hết hạnh phúc đơn sơ mà ngày thường
không để ý.
Xe dừng lại ở bến Nứa, mình vội đến luôn nhà các
bạn, đến trường...
Trường Tổng hợp như hẹp hơn hôm qua, ít gặp
người quen thuộc. Dừng lại dưới chân cầu thang,
bùi ngùi và buồn vô hạn... Tất cả như vụt đứng
dậy! Vụt ào ra, ôi, kỷ niệm... Và đậm đà là bóng
dáng N. Anh, hôm qua, hôm qua, đứng gõ cửa thật
nhẹ...
Vụt ào ra, như cửa sông, thời sinh viên say mê,
hồ hởi... Giật mình, sờ lên vai áo, cổ áo. Cuộc
sống vẫn như xưa, ồn ào, nghịch ngợm. Nhà cửa
vẫn bẩn và ngọn đèn vẫn trải vô vàn đường sáng.
Dắt Hải đi chơi, một lát, chia tay ở gốc cây thứ
ba, nơi nửa năm trước, ngày 30-5, chia tay N.
Anh.. Hải có biết tại sao mình chia tay với Hải
ở đây không? Ở gốc cây thứ ba này, mình đã chia
tay với bạn thân yêu nhất của mình.... Chỗ ấy,
cái miếu nhỏ, ngã tư, Văn Miếu...
Lại đi trên đường Nguyễn Ái Quốc. Thú vị vô
cùng, chỉ thiếu N. Anh. Nhưng, không sao cả,
hạnh phúc bắt đầu từ chỗ biết xa nhau...
Quả thật, về nhà, ở bên bố mẹ, gia đình sao
thanh thản lạ. Suốt đêm không ngủ, không muốn
ngủ tí nào. Nằm nhìn đỉnh màn và nghe tiếng thở
của gia đình. Tự dưng thấy mình lớn lên nhiều.
Tưởng chừng có thể che chở cho cả gia đình.
Bố mẹ yếu đi nhiều, gầy đi nhiều. Nhà cửa bề bộn
lắm. Bao nhiêu điều phức tạp giày vò bố mẹ mình.
Không thanh thản như mọi người, không sung sướng
và nhàn hạ như bố mẹ người. Vì sao? Vì sao?
Câu hỏi trả lời dễ và khó. Song ta biết cách trả
lời.
Cái ôtô lăn bánh qua cầu Long Biên. Lại xa Hà
Nội. Sông Hồng ơi, sông Hồng...
Bè nứa phơi trên cát bãi sông Hồng
Nơi tuổi nhỏ ta đi câu cá
Những chiếc xà lan ngày ấy nông nổi quá
Nay trầm tĩnh ngược sông chở đá chữa cầu...
Qua cửa kính mờ bụi, ta bối rối chào dòng sông
đỏ và nhẩm đọc vần thơ Lưu Quang Vũ. Thế là lại
xa Hà Nội, lại xa thủ đô và biết đến bao giờ?
Tạm biệt ngôi nhà, tạm biệt con người, đường phố
và những dòng cây xanh chảy trên vỉa hè thành
phố. Tạm biệt đôi mắt đen ở chân trời |
Những ngày
buồn....
24-12-1971
Gấp cuốn sách vào và suy nghĩ
về Paven (nhân vật chính trong Thép đã tôi
thế đấy - TT). Những trang cuối của tiểu
thuyết để lại cho mình nhiều chấn động mạnh
hơn cả. Mình chú ý nhiều đến bức ảnh Paven
ngồi như một ông già nhưng sôi sục ngọn lửa
sống. Lúc ấy ở bên bờ biển và ánh nắng đã
nhạt dần...
Cái gì nấp đằng sau con người ấy? Cái gì làm
nên nghị lực phi thường và dễ hiểu của
Paven? Thật dễ hiểu.
Mình thèm khát được sống như thế. Sống trọn
vẹn cuộc đời mình cho Đảng, cho giai cấp.
Sống vững vàng trước những cơn bão táp của
cách mạng và của cuộc đời riêng.
Hôm nay, lần đầu tiên trong đời mình cảm
thấy hổ thẹn với mọi người, hổ thẹn với
Paven, Pavơlusa thân yêu. Mình chưa phải là
một đảng viên!
Buổi chiều, đang họp A, anh Lộc gọi ra sân
và hỏi mình có giấy cảm tình Đảng không. Lúc
đó, chỉ hơi thoáng qua một ý nghĩ còn mờ
nhạt. Sao mình tới giờ vẫn chưa thấy gần gũi
với Đảng của Bác Hồ? Anh Lộc bỏ đi khi mình
lắc đầu. Mình như có lỗi gì đó, cái lỗi rất
lớn mà bấy lâu mình không biết.
Sao trước kia mình không hề lúc nào nghĩ đến
điều đó cả? Có phải vì mình thấy Đảng quá
cao siêu và mình không thể nào với tới? Có
phải vì mình kém nghị lực chiến đấu; kém
tinh thần vươn lên và cam chịu sống cuộc đời
riêng biệt, tẻ nhạt với những rung động êm
đềm? Có phải vì mình thấy trước được những
trở ngại không thể nào vượt qua được mà cảm
thấy phiền lòng?
10-1-1972
Năm ơi! Năm đang ở đâu rồi?
Thật không ngờ chiều qua lại là lần cuối
cùng hai đứa ở bên nhau. Còn bây giờ, xa lắm
rồi, xa lắm, nếu Năm không quay trở về đội
ngũ.
Đảo ngũ! Thật không thể tưởng tượng được.
Đêm nay bơ vơ ở đâu, ở trên một chặng đường
xe lửa hay một con đường lay lứt? Năm có cảm
thấy lạnh lùng, trống rỗng hay không? Chắc
mày trách tao lắm hả, ừ, tao tự trách mình
nhiều lắm, sao để mày như thế, sao để mày
như thế...
Sao trước kia không thương mày nhiều hơn
nữa, không gần gũi mà hiểu mày hơn nữa. Giấy
truy nã mày tao cầm trong tay đây. Sớm mai
sẽ có người xa lạ nào cầm đọc, người ta sẽ
nguyền rủa mày, khinh bỉ mày Năm ơi!
Năm ơi, quay trở lại đi, quay lại và rủ
thằng Thỏi nữa, đồng đội và tao đang chờ
mày. Cái giường ọp ẹp vẫn dành chỗ ấm nhất
cho mày đó. Sao mày lại bỏ đi mà ngủ trên
một quãng đồng trống trải, lạnh lùng... Năm
à, quay lại đi!
4-3-1972
12 giờ 15
Cứ mỗi lần bỏ cái mũ ra, người ta
lại ồ lên kinh ngạc vì mái đầu bạc của tôi!
Sao người ta tàn nhẫn thế hở những người
xung quanh? Thử giật một sợi tóc vô tình,
phần lớn là tóc bạc, những sợi tóc trong
trẻo, trắng muốt thế, mà lại là nỗi buồn êm
dịu, nỗi buồn dai dẳng, đau đớn và dữ dội
của lòng tôi ? Chẳng lẽ tôi đã già đi như
vậy? Già trước tuổi, già trước tất cả những
gì tôi đã trải qua và chưa hề trải qua?
Tôi lo lắng chút gì về bản thân, lo nhiều vì
tôi chưa làm việc ra hồn, lo nhiều vì thời
gian trôi đi nhanh và mất hút sau lỗ rách
của mái lều...
Đừng ai xem những dòng này. Vả lại cuốn nhật
ký này chắc cũng chẳng bao giờ có ai xem
được. Tôi sẽ chỉ giữ những cảm xúc này cho
tới lúc vĩnh biệt miền Bắc thân yêu đi chiến
đấu, và sẽ biến những trang giấy vô duyên
này thành ngọn lửa hun cay sè mắt tiễn biệt
tôi. Vì chắc chắn chẳng có ai tiễn đưa tôi
cả. Tôi đi và gửi tấm thân này ở một miền
đất nào đấy mà tôi biết hoặc chưa thể biết
tên.
25-3-1972
Thạc
đừng kéo Như Anh lại nữa. Thạc để Như Anh đi
đi. Thạc sống một mình như vậy nhé. Hạnh
phúc của đời chỉ dành cho Thạc thế mà thôi.
Phải, giờ đây tôi ân hận rất nhiều. Tôi tự
trách mình sao đã tìm đến Như Anh. Phải, bao
nhiêu lần tôi nhủ Như Anh đừng chờ tôi làm
gì nữa. Nhưng chính lúc tôi nói những điều
ấy trong thư, thì tâm hồn và trái tim tôi
bàng bạc một dòng tha thiết: chờ Thạc, Như
Anh nhé. Chờ Thạc, như cô gái VN chung thủy
trọn đời với người yêu đi chiến đấu. Chờ
Thạc, như cô gái trong bài thơ của Tế Hanh:
Em chờ anh không biết có thời gian...
7-5-1972
Người nhà Nguyễn Văn Thạc kể lại,
trước Cách mạng tháng 8-1945 Thạc có người
bác họ làm phó lý ở quê.
Trong cải cách ruộng đất, ông này bị quy là
thành phần địa chủ, cường hào (sau này ông
đã được sửa sai và mất vì tuổi già).
Thêm nữa, bố mẹ Thạc từng có một xưởng nhuộm
và dệt thủ công, với khoảng 15 người làm,
toàn con cháu trong nhà.
Dù phương tiện máy móc của cái xưởng nhỏ này
đã bị sung công vào hợp tác xã, khi xảy ra
chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ và
gia đình đã bị phá sản, nhưng bố mẹ Thạc vẫn
được coi là tiểu chủ...
18 năm rồi ư? Từ ngày chiến thắng Điện Biên
lừng lẫy địa cầu. Những ngày đó mình mới chỉ
là đứa bé lên 2. Đã biết gì đâu. Người ta
bảo rằng không ai khi nằm trong bụng mẹ đã
hỏi được hoàn cảnh xuất thân của mình. Không
thể hỏi được mình đã sinh ra trong gia đình
thế nào, tư sản hay địa chủ cường hào!
Từ rất lâu rồi mình vẫn mơ hồ về gia đình
của chính mình. Những người khác, những
người bạn khác của mình họ thường tự hào về
hoàn cảnh xuất thân của họ. Tự hào về các
anh chị và các em, ông bác, ông chú xa xa,
gần gần của họ. Rồi còn vô vàn cái để họ tự
hào nữa. Mỗi khi nhắc đến lý lịch là người
ta lại cảm thấy trào dâng lên một niềm vui,
một nỗi sung sướng pha chút gì kiêu ngạo. Có
lẽ bởi vì con người họ không có chút gì đáng
tự hào nên họ phải làm như thế chăng?
Cũng phải thôi, vì bản thân họ rất sung
sướng được sống và sinh ra trong một gia
đình cách mạng, cha mẹ, ông bà họ là những
người đã đổ xương máu cho dân tộc, cho giai
cấp. Và giờ đây, Đảng đặt lòng tin vào con
em các bậc tiền bối cách mạng ấy.
Chao ôi, bao nhiêu lần mình ao ước có được
hạnh phúc xa vời ấy, được Đảng tin và trao
cho những nhiệm vụ nặng nề.
Khi còn ở trường phổ thông, dẫu sao quan hệ
chính trị cũng còn bằng lặng. Tuổi thơ trong
sáng biết chừng nào, nó chưa bị vết đen của
quá khứ gia đình đè trĩu hai vai. Người ta
hoàn toàn được bình đẳng với nhau trong mọi
quan hệ. Chỉ vì hơi gợn một chút qua thái độ
của cô hiệu phó cấp III một ít. Song, còn
thoải mái lắm.
Ở trường đại học, nhất là Trường Tổng hợp,
nhà trường chú ý nhiều đến chuyên môn và ít
chú ý đến chính trị mấy. Người ta lao vào
học tập, vào những cuốn sách, và cứ nghĩ
rằng đó là chống Mỹ cứu nước rồi. Không
nhiều lắm những người chỉ thích đi làm cán
bộ lớp, cán bộ Đoàn như kiểu Thuỵ, Qui... Vả
lại, trong trường ĐH, con em gia đình không
cơ bản không phải là ít. Đầy rẫy ra đấy. Mà
phần lớn lại là những đứa học giỏi, rất giỏi
của lớp!
Còn giờ đây thì khác nhiều rồi. Đâu ra đấy
cả. Cùng là hai người không hề khác nhau gì
về bản thân họ nhưng lý lịch trong sạch,
nhất là đỏ thực sự, là khác nhau lắm rồi.
Rất nhiều khi đứng nhìn đoàn bộ đội đi qua,
mình cũng thấy lẻ loi, lẻ loi quá đi mất!
Khuôn mặt nào cũng đẹp, mình cứ nghĩ chỉ có
những người cộng sản thực sự mới sinh ra
được đoàn quân ấy. Họ đi, họ đi... và có lẽ
họ chẳng biết rằng họ đang được hưởng một
gia sản quí báu mà ông cha ruột thịt của họ
mang lại.
Cứ mỗi lần khai lý lịch, mình lại buồn, buồn
tận sâu xa. Anh Thục cảm tình Đảng từ lâu
rồi mà chưa được kết nạp. Và cứ càng về sau,
nói chuyện với anh, mình lại cảm thấy anh cứ
đuối dần, cứ đuối dần. Anh cứ thất vọng dần.
8-5-1972
Thực tình đã có dấu hiệu gì chứng tỏ
mình bị loại ra khỏi đội ngũ đâu! Nhưng
linh tính cứ cho mình biết rằng mình không
thể trở thành một đảng viên được. Mơ hồ thấy
rằng khó khăn đến với mình sẽ nhiều đây.
Không sao hết! Miễn rằng anh sống thực sự
như một đảng viên, thế đã tạm đủ rồi. Vào
Đảng để làm gì nhỉ? Khi người ta đã sống và
làm việc như một đảng viên rồi! Không nên
suy nghĩ gì về chuyện ấy hết. Đảng khắc sáng
suốt và dìu dắt mình. Điều cơ bản nhất, gia
đình mình là gia đình lao động, cha mẹ mình
là người lao động và hoàn toàn giác ngộ.
Mình luôn luôn tin là thế.......
|
Bức thư tình
và lời hẹn hò lớn lao....
Nồng nàn, trìu mến, những linh cảm buồn, và
lời hẹn 30-4 cứ trộn lẫn vào nhau trong những
trang thư Nguyễn Văn Thạc gửi cho người bạn gái
Phạm Thị Như Anh. Những bức thư này, nhà thơ
Đặng Vương Hưng gửi cho Tuổi Trẻ, không có trong
nhật ký...
30-4-1971
...Bốn
năm nữa Như Anh đã trở thành con người hoàn
chỉnh, đã có thể trả lời câu hỏi: Hạnh phúc là
gì?.
Chao ôi, Như Anh, Như Anh bé bỏng của Thạc. Sao
câu trả lời của Như Anh lại hay và đẹp đẽ thế.
Ừ, phải rồi, khi nào trở thành người lớn thực
sự, khi nào đóng góp được cho Tổ quốc, khi đấy
ta mới trả lời được, hạnh phúc là gì!. Cám ơn
thầy Nga văn ngộ nghĩnh của Như Anh đã giúp cho
Thạc hiểu được khía cạnh đẹp đẽ ấy của tâm hồn
bạn.
...Bốn năm nữa biết bao sự kiện sẽ xảy ra.
30-4-1975 thì Thạc và Như Anh đang ở trong tình
trạng nào? Như Anh ơi, hứa với Thạc đi,
30-4-1975, dù chúng ta có thể giận, ghét nhau
đến đâu đi nữa, dù thế nào cũng sẽ viết cho nhau
những dòng chữ hạnh phúc là thế nào nhé! Thạc
sẽ nhớ lời hứa này và sẽ chuẩn bị ý tứ cho bức
thư ngày ấy bằng cuộc sống bốn năm sắp tới.
Phải, thời gian sẽ là người chứng kiến cuộc sống
của chúng ta. Có thể nhiều biến cố và thử thách
sẽ đến. Nhất định thế, vì Như Anh hãy nhớ rằng:
đời Thạc, một cuộc đời đầy rẫy mâu thuẫn và đau
khổ, đầy ước mơ và rạo rực, đầy những dằn vặt và
thử thách lớn lao. Thạc sống không bình thường
và không muốn sống bình thường.
Muốn có nhiều thử thách, nhiều lang bạt, muốn
như cánh chim đại bàng đứng trên đỉnh núi cao,
nhìn ra bốn phía, nơi nào có bão táp, có mưa, có
gió là nơi Thạc sẽ đến. Thạc sẽ không chỉ đơn
thuần là một sinh viên tổng hợp toán. Như Anh
hãy nhớ thế. Đừng một lúc nào nghĩ Thạc là một
ngài sinh viên nhé! Không, Thạc không chỉ tầm
thường là một ngài sinh viên đâu. Thạc đã và sẽ
sống hai, ba cuộc sống gian khổ, phức tạp. Cho
đến khi nào Thạc không còn tồn tại, khi đó mới
hết những cơn giông tố.
... Như Anh chưa thể hiểu được câu Thạc viết:
Như Anh là một điều đau buồn của Thạc... Như
Anh là màu xanh da trời kỳ dị... Như Anh là trái
mơ chua (!)....
Phải, Như Anh chính là vậy. Như Anh sẽ là điều
đau buồn của tâm hồn Thạc, vì Như Anh sẽ chẳng ở
lâu với Thạc. Như Anh sẽ xa và quên Thạc, sẽ để
lại cho Thạc một khoảng trống mênh mông, sẽ lấy
đi của Thạc một nguồn động viên an ủi, một âm
thanh, không, cả thế giới âm thanh, cả một khu
rừng muôn vàn cây lá, muôn vàn tiếng chim lích
tích, lích tích, lảnh lót và ngân dài... Sẽ lấy
của Thạc cả một dòng sữa và một dòng ánh sáng.
Màu xanh da trời kỳ dị kia. Ừ, cũng là Như Anh
đấy, quen thuộc và gần gũi, thân yêu và trong
sáng, giản dị nhưng vô cùng độc đáo và đẹp đẽ,
nên thơ, rất cao và rất gần, rất rộng nhưng nó
nằm trọn vẹn trong ánh mắt. Màu xanh da trời,
chao ôi, không bao giờ người ta có thể nắm lấy
nó, để bàn tay trên nó, chưa bao giờ được thực
sự gần gũi nó cả. Cái màu xanh ấy, màu xanh da
trời kỳ dị, nó ở xa, rất xa và ở trên rất cao.
Lúc nào và hôm nào ta cũng thấy, cũng ngưỡng mộ.
Nhưng nó là màu sắc của bầu trời...
Cám ơn Như Anh đã gửi Núi đồi - thảo nguyên cho
Thạc, câu chuyện làm xao động tâm hồn Thạc
nhiều. Và cái quạt nữa (chỉ tiếc, nếu dùng luôn
thì một lúc nào đó sẽ rách). Như Anh tặng Thạc
cái gì giữ được ấy, chứ quạt thì khó giữ lắm, mà
rách thì rất tiếc.
...Thư dài rồi mà chẳng nói được gì cả. Như Anh
sẽ trả lời Thạc chứ! Không biết thư này đem đến
cho Như Anh niềm vui hay sự phiền toái. Thạc chỉ
muốn như Anđecxen, đem cho Như Anh quả thông và
lá cỏ, đem đến cho Như Anh những câu chuyện có
thực mà như một giấc mơ...
4-9-1971
Như Anh yêu dấu,
Sáng nay, buổi cuối cùng ở nhà. Bạn của L. (*)
đang ngồi ngoài kia, song toàn bạn gần nhà nên
L. được phép vào viết thư cho Như Anh. L.muốn
viết, muốn tặng Như Anh những giây phút quí giá
mà L. đang còn là tuổi nhỏ. Ngày mai, những
con chim câu vĩnh viễn bay vào khoảng trời đầy
nắng gió kia...
Thật đáng tiếc biết bao, những ngày này trăng
rắc bụi vàng trên các nẻo đường Hà Nội. L. của
Như Anh đi cô độc và bình thản dọc theo hướng
gió, gió lướt thướt kéo qua L. những lời quyến
rũ, không, chẳng có gì quyến rũ nơi L. đâu. Gió,
gió ơi, gió biết chăng ở thủ đô của xứ Mônđavi
mùa đông phủ đầy tuyết trắng, có một bông hoa
xanh màu ngọc bích, có một tia nắng của bầu
trời, một làn gió nhớ thương, có một bài thơ,
một trang cổ tích...
Gió có biết câu chuyện về bà chúa tuyết? Và gió
hãy tìm đến ngôi nhà mà ta đề ngoài phong bì ấy,
tìm gặp người nào cao cao, thanh mảnh, tìm đến
đôi mắt nào đẹp nhất, tìm đến cái tên nào đẹp
nhất, cái tên mà ta hay nhắc nhở trong những
giấc mơ buồn, trong những giấc mơ vui, cái tên
đẹp như ánh sáng xanh mà Sôlôkhôp thường ca
tụng...
Gió hãy thầm thì thay ta nhé, nói gì cũng được,
miễn là gió đem đến cho người ta yêu dấu hương
vị nồng nàn, thanh bạch của trăm loại hương hoa,
miễn là gió đem đến cho tâm hồn tuyệt đẹp của ta
màu đỏ của lá phong mùa thu, và cánh chim câu
bay đi từ ga Hà Nội...
Ừ, rồi đây cuộc sống sẽ khác xa, L. chưa hình
dung nổi cuộc đời bộ đội của mình. Gian khổ, khó
khăn, vất vả, chết chóc, hi sinh, tàn phế... Ba
từ đầu sẽ đến với L., còn từ sau, không biết sẽ
chọn lấy từ nào? Bàn tay nào, bàn tay của kẻ nào
bên kia đại dương sẽ nhằm vào L. của Như Anh?...
Ngày mai, nếu ta chẳng gặp nhau, Như Anh đi trên
những nẻo đường của ký ức, Như Anh nhìn vào đôi
mắt nào gần gũi hay xa lạ với L., hãy nhớ L. một
chút. Hãy nhớ rằng, ừ, có một người tên là L.
đấy, đã chết rồi. Nhưng trước khi chết, người ấy
đã sống và đã ghép tên Như Anh với vô vàn tính
từ âu yếm...
Ở đâu L. cũng không quên Như Anh. Nhưng Như Anh
nhớ nhầm rồi, L. bảo ngày 30-4-1975 mới trả lời
câu Hạnh phúc là gì? cơ mà, chứ có phải
11-4-1975 đâu?
L. bỗng nhớ câu thơ của Phạm Tiến Duật:
Dân tộc ấy có gì kỳ lạ
Một nước bao nhiêu là đá vọng phu
Những năm tháng đợi chờ
Chỉ một là người, hai là hóa đá
Dân tộc ấy có gì kỳ lạ...
Hôm nay, 4-9-1971, buổi sáng cuối cùng trên quê
hương, lúc này là 11g trưa, nắng đỏ hồi, đỏ
lửa... Lát nữa, 2g L. tập trung, chẳng có ai ra
tiễn cả, kể cả gia đình, L. đi như đi học, thanh
thản và nhẹ nhàng... Ừ, L. đi học, trường đại
học cộng sản Như Anh nhé, chờ L. nhé...
18-9-1971
... Lecmôntôp, với câu thơ nổi tiếng
mà Như Anh chép cho Thạc bỗng dưng lại trở về
bên Thạc: Thuyền cần gió táp mưa sa...
Bất kỳ một sự vinh quang nào cũng cần phải trả
bằng một giá, và khó khăn gian khổ càng nhiều,
và thử thách càng nhiều, sự vinh quang đó càng
trở nên rực rỡ.
Chúng ta đừng đi tìm những chân lý sâu xa đơn
thuần qua những áng văn và những bài thơ, bài
toán. 30-4-1975, Thạc sẽ trả lời cho Như Anh
câu: Hạnh phúc là gì? Khi Như Anh chào cờ, khi
điệu nhạc quốc ca hùng tráng trỗi lên, Như Anh
chắc rất xúc động, nhưng khi tiễn ở trường, Thạc
đã khóc và tất cả 300 con người sắp vào bộ đội
đã khóc. Ôi chao, buổi đó thật là xúc động. Cả
người run lên, rờn rợn. Thế là từ nay trong khúc
nhạc này, có một phần mồ hôi, xương máu của đời
mình.
Chống Mỹ cứu nước, thời đại bão táp đó không kéo
dài đâu. Buổi bình minh của cách mạng, phải
không Như Anh? Ai sẽ là người đi vào mờ sáng? Đó
là Thạc và 300 con người ở Trường Tổng hợp này.
Ai sẽ là người chết lúc bình minh? Không biết,
nhưng nếu được xung phong, chắc không ai là
người chùn bước!
26-3-1972
Như Anh yêu dấu của Thạc,
...Như Anh biết không, khi được tin Thạc không
còn trong danh sách lưu học sinh nữa, lúc ấy
Thạc buồn không thể nào tưởng được. Từ trước vẫn
ao ước được đi học nước ngoài, ở đó Thạc sẽ tiếp
thu những kiến thức hiện đại nhất của khoa học.
Thạc sẽ học thật chăm, thật giỏi... Nhưng Thạc
phải ở nhà và chuẩn bị đi bộ đội. Lúc đó buồn và
nản hết sức, không muốn gặp ai cả.
Ra ga tiễn các bạn đi, vừa tủi thân vừa có chút
gì xấu hổ (ôi chao, cái thời vừa chập chững vào
đời ấy, có gì đáng trách đâu Như Anh nhỉ?). Thế
rồi, suốt cả vụ hè, thở ngắn than dài. Mùa hè ấy
Thạc đã đọc rất nhiều tác phẩm văn học. Lần đầu
tiên đọc trọn ba tập tiểu thuyết tự thuật của
M.Gorki, Thạc hiểu rằng không thể nào làm được
điều gì lớn lao nếu cuộc sống của mình không
thực sự lớn lao.
Chẳng gì có thể ngăn cản được con người khi bản
thân họ nung nấu trong lòng một nghị lực phi
thường không gì dập tắt nổi. Khi bản thân họ
đang nuôi một ước mơ chân chính: trở thành người
có ích cho đất nước. 17-7-1970 thi đại học thì
15-7 Thạc mới đi vào ôn thi. Hai ngày thôi, chỉ
có hai ngày mà Thạc của Như Anh ôn xong hoàn
chỉnh cả toán, lý và hóa. Và với lòng tự ái ít
nhiều, Thạc của Như Anh đã làm tốt nhất hai bài
lý và hóa, với điểm toán thấp nhất là 7.
Bây giờ đây Thạc muốn nói với Như Anh điều mà
Thạc còn e ngại mãi: chờ Thạc, Như Anh nhé! Chờ
Thạc đi chiến đấu trở về. Chắc không còn lâu nữa
chiến tranh sẽ kết thúc thôi. Thạc sẽ trở về và
lại đi học tiếp. Thạc lại mặc chiếc áo xanh da
trời xanh màu thương nhớ. Lại hò hẹn Như Anh, vì
chúng ta gặp nhau ở cái cửa sổ sơn xanh của thư
viện nhân dân.
Thôi nhé, bắt tay cô sinh viên nào. Vui và khỏe
nhé. Học giỏi nhé, thỉnh thoảng nhớ Thạc chụp
ảnh và viết thư gửi về cho Thạc nhé. Cứ nhé mãi
thôi. Đừng ghét Thạc nhé!
Xiết chặt Như Anh. Thạc của Như Anh.
Thạc của Như Anh đã không trở về! Không về được,
dù lời hẹn hò của đôi lứa yêu nhau đã như lời
tiên tri cho ngày đoàn tụ của cả dân tộc...
Trong một trận đánh ác liệt bên thành cổ Quảng
Trị, một loạt đạn pháo của kẻ thù đã rơi trúng
chỗ chiến sĩ thông tin Nguyễn Văn Thạc... Hôm đó
ngày 30-7-1972 |
Chuyện chưa
kể trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi...
Tác giả bài viết và ông Nguyễn Văn
Thục (phải) bên mộ của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc
tại nghĩa trang liệt sĩ Từ Liêm, Hà Nội
TT - Những trang nhật ký mà chúng ta vừa được
đọc chỉ là một phần của cuốn sách dày 320 trang
in. Bản thảo gốc là một cuốn sổ tay khổ nhỏ, bìa
bọc nilông màu xanh, với tổng cộng 240 trang
chép tay, chữ nhỏ li ti, đều tăm tắp, rất ít
gạch xóa, được viết bằng mực xanh và đen.
Cuộc hành trình 33 năm của cuốn sổ tay
Cuốn sổ nói trên được Nguyễn Văn Thạc gửi về nhà
từ Kỳ Anh (Hà Tĩnh), trước khi vào mặt trận và
hi sinh sau đó gần hai tháng. Tuy nhiên, do điều
kiện thời chiến, bưu điện phải gửi giấy báo tới
lần thứ ba, gia đình anh mới có người ra nhận.
Chỉ chậm một hai ngày nữa là bưu phẩm có thể bị
trả lại và chắc chắn sẽ bị thất lạc vì người gửi
đã ra mặt trận và hòm thư đơn vị cũng thay đổi.
Ông Nguyễn Văn Thục (anh ruột của Nguyễn Văn
Thạc) là người đầu tiên đọc những trang ghi chép
nêu trên. Ông cho rằng người giữ cuốn sổ thiêng
liêng này không ai xứng đáng hơn là chị Phạm Thị
Như Anh. Cũng giống như bao cô gái khác, lúc đầu
chị Như Anh không tin người bạn trai thân thiết
của mình đã chết.
Nhưng sự thật phũ phàng đã khiến chị sụp đổ,
chán chường và buông xuôi số phận. Như Anh đã
xé rào để kết hôn với một người Đức (thời đó ở
miền Bắc, chuyện lấy Tây là rất ầm ĩ và không
chấp nhận được!). Và cuốn sổ ghi chép của Nguyễn
Văn Thạc đã theo TS Phạm Thị Như Anh đi định cư
tại nước ngoài...
33 năm sau cuộc chiến đẫm máu ở Quảng Trị, người
anh ruột của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc đã tiết lộ
với tôi về cuốn sổ nhật ký nêu trên. Ông nói:
Nếu muốn công bố thì phải được sự đồng ý của
Như Anh. Đã từ lâu gia đình tôi coi em nó như
dâu con trong nhà.
Qua địa chỉ e-mail và cả điện thoại, đã nhiều
lần chúng tôi liên lạc với TS Phạm Thị Như Anh,
một Việt kiều đang định cư tại Hannover (CHLB
Đức), để thuyết phục chị. Tháng 12-2004, chị Như
Anh đã bay về nước và mang theo cuốn sổ nói
trên. Ngồi trong phòng làm việc của tôi, người
đàn bà nổi tiếng là nghị lực và thông minh này
đã vừa khóc vừa kể lại những kỷ niệm của mình
với liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc. Chị bảo chính linh
hồn của Thạc đã thúc giục chị phải trao số
phận của cuốn nhật ký này cho một nhà thơ như
tôi.
Và Mãi mãi tuổi hai mươi đã ra mắt bạn đọc như
chúng ta đã biết.
Ngày cuối cùng
của người lính Nguyễn Văn Thạc
Trong một trận đánh ác liệt bên thành
cổ Quảng Trị sáng 30-7-1972, chiến sĩ thông tin
Nguyễn Văn Thạc được giao nhiệm vụ bảo đảm liên
lạc cho trung đoàn 101, sư đoàn 325...
Sau này, một chiến sĩ cùng tiểu đội với anh là
Nguyễn Quang Minh đã kể lại: Loạt đạn pháo của
địch rơi đúng chỗ Thạc. Khi những tiếng nổ dữ
dội vừa dứt, khói và bụi còn chưa hết, Minh và
một chiến sĩ nữa là Chương cùng chạy ra thì đã
thấy Thạc nằm đó. Một mảnh pháo chém ngang hai
đùi của anh, máu chảy ướt đẫm ống quần.
Chương hốt hoảng hỏi:
- Thằng Thạc chết rồi à?
Mắt Thạc nhắm nghiền. Anh rên khe khẽ và nói
trong đau đớn:
- Không, Thạc vẫn còn sống mà, chưa chết đâu.
Máu ra nhiều lắm. Mấy anh em vội xúm lại băng bó
rồi khiêng Thạc lên trạm phẫu tiểu đoàn, với hi
vọng còn nước còn tát. Các giấy tờ, sổ sách,
quần áo của Thạc được anh em nhét chung vào balô
của anh Y, một thương binh khác (nhưng khi ra
tới Quảng Bình thì anh Y đã hi sinh, balô đựng
di vật liệt sĩ bị thất lạc...; cùng ngày hôm đó,
tiểu đội của Thạc hi sinh bốn người: Y, Bình,
Được và...).
Minh chạy theo cáng thương, rơm rớm nước mắt
động viên Thạc:
- Cố lên Thạc nhé. Gắng điều trị cho nhanh khỏi,
hòa bình rồi có điều kiện ghé qua nhà mình
chơi...
Thạc nói khẽ, thều thào trong hơi thở đứt quãng:
- Không... Mình tỉnh thế này tức là... sắp chết
rồi... Chỉ tiếc là không còn chiến đấu được
nữa... Bao dự định còn dang dở...
Kể từ đó Thạc không nói thêm được câu nào nữa.
Anh đã tắt thở trong vòng tay của đồng đội. Như
nhiều người lính hi sinh ngoài chiến trường, thi
hài của anh được bọc trong một tấm tăng nilông
và chôn cất ngay tại mặt trận.
Ở nghĩa trang liệt sĩ Từ Liêm...
Trong một lá thư viết năm 1973 gửi cho gia đình
liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc, một đồng đội của anh là
Đặng Trực Ngôn (hiện là đại tá, chỉ huy trưởng
căn cứ hải quân 696) đã thông báo địa điểm chôn
cất Thạc.
Cuối năm 1976, Công ty 16 của Bộ Giao thông vận
tải được giao nhiệm vụ khôi phục tuyến đường
Hiền Lương - Dốc Miếu sau chiến tranh. Với cương
vị phó chủ nhiệm (như phó giám đốc hiện nay) ông
Nguyễn Văn Thục đã báo cáo cơ quan, xin phép
được vượt sông Thạch Hãn đi tìm mộ em trai mình.
Hồi đó, mộ liệt sĩ còn nằm rải rác khắp mặt
trận, trong mấy ngày liền, anh xã đội trưởng xã
Triệu Long đã nhiệt tình dẫn ông Thục đi bộ khắp
địa phương và cả vùng lân cận. Họ cùng xem xét
hàng ngàn ngôi mộ nhưng không thấy có tên Nguyễn
Văn Thạc. Tưởng đã hết hi vọng thì anh này chợt
nhớ ra ngay sau vườn nhà mình còn ba ngôi mộ
nữa... Ông Thục mừng rưng rưng nước mắt khi thấy
một bia mộ có tên em trai mình. Ông định bốc một
nắm đất mang về Hà Nội để thờ nhưng sau lại thôi
vì chợt nảy ra ý định khác.
Một tháng sau, ông Thục trở lại Triệu Long cùng
chiếc vali mới và đồ cúng lễ mua ở chợ Đông Hà.
Ông đề nghị chính quyền địa phương và bà con
trong thôn giúp đỡ để đưa hài cốt em trai về
quê. Khi ngôi mộ được đào lên, người anh trai đã
không cầm được nước mắt vì nhận ra em mình: mái
tóc cắt ngắn với rất nhiều sợi bạc, hai đùi vẫn
còn nguyên cả garô vết thương...
Khi đưa được hài cốt em trai về tới Hà Nội thì
vẫn còn dở chuyến công tác, ông Thục chưa muốn
cho ai biết nên đành giấu chiếc vali lên gác.
Nhưng được đôi ngày, sợ người nhà tò mò mở vali
tình cờ phát hiện, ông phải đưa nó vào tủ quần
áo của mình và khóa lại. Mãi 10 ngày sau, đã 28
tết âm lịch, mới có thời gian rảnh, ông Thục tự
đi liên hệ chỗ chôn cất rồi thông báo cho cả gia
đình biết.
Một đám tang lặng lẽ, đầy nước mắt diễn ra âm
thầm ngay tại nghĩa trang liệt sĩ Từ Liêm. Tự
tay người cha già, cụ Nguyễn Văn Huệ, đã chuyển
từng phần hài cốt của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc từ
chiếc vali sang tiểu sành, rồi rắc nắm đất đầu
tiên, đắp mộ cho con trai mình. Người con trai
mãi mãi 20 tuổi...
ĐẶNG VƯƠNG HƯNG
Hết |
Chút
tâm sự:Đây là một câu chuyện hay và cảm động
về đời sống tâm tư của người lính,của người
thanh niên khi ra tiền tuyến đối mặt với
sống chết...những giây phút ...những tâm trạng có
lẽ không phải chỉ riêng Bác Thạc cảm nhận được
mà có lẽ cũng là của cả 1 lớp thế hệ cha anh
lúc bấy giờ...qua cuốn nhật kí ta có thể hiểu
hơn về những hi sinh của các anh...và những nỗi
đau thương mất mát mà người thân phải chịu...Và
điều đặc biệt có thể nói là kì diệu ở đây đó
là...lời tiên tri cho ngày chiến thắng ngày thống
nhất đất nước ngày giành độc lập hoàn
toàn...cũng là cái ngày anh hẹn Anh Thư người
bạn gái của anh...Đọc xong cuốn nhật kí,trong tôi
cũng tràn ngập những cảm xúc khác nhau...cảm
phục sự hi sinh to lớn của cả 1 thế hệ,...sự
tiếc nuối cho cuộc đời cũng như cuộc tinh ngắn
ngủi của 2 người...không thể chờ tới cái ngày
HẠNH PHÚC...và qua đó lòng trào dâng những cảm
khái niềm tự hào và khát vọng của tuổi trẻ đó
là được cống hiến cho Quê hương ... Cám ơn xin cám
ơn...có lẽ tôi cũng chỉ có thể nói lên những
lời ấy trong tiếng nấc và lòng bồi hồi xúc
động cám ơn thế hệ cha anh đi trước đã đem lại
cho lớp lớp đàn em lớp lớp con cháu sau này 1
cuộc sống ấm no và những kí ức đẹp về 1 thời
hào hùng oanh liệt nhưng không kém phần lãng
mạn... |
|