"Hỡi sóng cả"...
Hỡi sóng cả,ai ngăn ai chặn
Bước các người ào ạt trào lên?
Ai biến dòng nước xưa cuồn cuộn
Thành ao tù hoang dại lặng câm?
Giữa lòng ta phép thần ai dập tắt
Cả khổ đau,hy vọng, cả niềm vui
Và đã đem giấc mơ màng biếng nhác
Phủ tâm hồn dông tố tuổi hai mươi ?
Gió,gió đâu,cuộn ao tù thành thác,
Phá tan tành đập chắn âm u!
Dông tố đâu-hình ảnh của tự do,
Hãy phả lên mặt nước tù u uất!
1823
Thuý Toàn dịch

 


 

Кто, волны, вас остановил,
Кто оковал ваш бег могучий,
Кто в пруд безмолвный и дремучий
Поток мятежный обратил?
Чей жезл волшебный поразил
Во мне надежду, скорбь и радость
И душу бурную
Дремотой лени усыпил?
Взыграйте, ветры, взройте воды,
Разрушьте гибельный оплот!
Где ты, гроза символ свободы?
Промчись поверх невольных вод.
Người gieo giống tự do trên đồng vắng

Là người gieo giống tự do trên đồng vắng
Tôi ra đi từ sáng sớm tinh mơ
Bàn tay tôi trong trẻo ngây thơ
Gieo mầm sống trên luống cày nô dịch
Nhưng tôi chỉ phí thời gian vô ích
Cả tư tưởng và việc làm thiện chí của tôi

Nhân danh than bình,cứ gậm cỏ đi thôi!
Tiếng vinh dự không thể làm tỉnh giấc
Tự do đâu cho một bầy súc vật?
Chúng chỉ cần cắt xẻo,cạo lông
Đời nối đời,di sản chúng nó chung
Là ách nặng đeo chuông và roi vọt
1823
Hoàng Trung Thông dịch

 


 

Свободы сеятель пустынный,
Я вышел рано, до звезды;
Рукою чистой и безвинной
В порабощенные бразды
Бросал живительное семя
Но потерял я только время,
Благие мысли и труды...

Паситесь, мирные народы!
Вас не разбудит чести клич.
К чему стадам дары свободы?
Их должно резать или стричь.
Наследство их из рода в роды
Ярмо с гремушками да бич.

 

 

Chiếc xe đời
Trên xe dù có nặng
Vó ngựa vẫn băng băng
Thời gian tóc hoa râm
Tay cương ngồi chễm chệ

Sáng ra lên xe ngồi
Đời xông pha bương bả,
Khinh nhác lười,nhàn nhã
Hò vang :"Mau đi thôi!"

Đến trưa chí nhụt rồi,
Thấy rãnh hào lòng nản
Nhìn núi đồi đâm hoảng
-Đồ ngu,chầm chậm thôi!

Chiều đã dần dần quen
Tà tà đến quán trọ
Mặc cho bánh xe lăn-
Thời gian xua vó ngựa
1823
Thuý Toàn dịch

 


 

ТЕЛЕГА ЖИЗНИ
Хоть тяжело подчас в ней бремя,
Телега на ходу легка;
Ямщик лихой, седое время,
Везет, не слезет с облучка.

С утра садимся мы в телегу;
Мы рады голову сломать
И, презирая лень и негу,
Кричим: пошел! . . . .

Но в полдень нет уж той отваги;
Порастрясло нас; нам страшней
И косогоры и овраги;
Кричим: полегче, дуралей!

Катит по-прежнему телега;
Под вечер мы привыкли к ней
И, дремля, едем до ночлега
А время гонит лошадей.

 

"Hết rồi -tình đã vỡ tan"
Hết rồi-tình đã vỡ tan
Anh ôm lần chót đôi bàn chân em
Những lời chua xót thốt lên-
Anh nghe lời đáp của em:-Hết rồi.

Anh không còn tự dối thôi,
Nỗi sầu anh chẳng trọn đời dõi em,
Chuyện tàn,có thể anh quên;
Tình yêu không thể đáp đền cho anh!
Trẻ trung hồn lại đẹp xinh,
Mai em được biết bao tình mến yêu.
1824
Xuân Diệu dịch theo bản dịch nghĩa của Thuý Toàn


 

Все кончено: меж нами связи нет.
В последний раз обняв твои колени,
Произносил я горестные пени.
Все кончено я слышу твой ответ.
Обманывать себя не стану вновь,
Тебя тоской преследовать не буду,
Прошедшее, быть может, позабуду
Не для меня сотворена любовь.
Ты молода: душа твоя прекрасна,
И многими любима будешь ты.
Tửu thần ca

Sao bỗng lặng muôn âm than rộn rã?
Vang dậy lên,muôn khúc tửu thần ca !
Muôn,muôn năm những cô gái óng tơ
Và những người vợ hiền yêu ta tha thiết !
Này hãy rót,rót cho tràn miệng cốc !
Hãy ném phăng những chiếc nhẫn đá vàng

Xuống đáy cốc vang vang
Vào rượu nồng men bốc !

Nào nâng lên , cùng nhau ta chạm cốc !
Chúc nàng thơ và trí tuệ muônnăm !
Mặt trời thiêng ,người hãy cháy bùng lên !...

Thứ thông minh giả tạo
Sẽ lu mờ tiêu tan
Trước mặt trời bất diệt
Của trí tuệ nhân gian

Như trước bình minh đang dâng lên rạng rỡ
Ngọn đèn kia leo lắt lụi tàn
Chào mặt trời !Quét sạch bóng đêm đen !
1825
Thuý Toàn dịch


 

ВАКХИЧЕСКАЯ ПЕСНЯ
Что смолкнул веселия глас?
Раздайтесь, вакхальны припевы!
Да здравствуют нежные девы
И юные жены, любившие нас!
Полнее стакан наливайте!
На звонкое дно
В густое вино
Заветные кольца бросайте!
Подымем стаканы, содвинем их разом!
Да здравствуют музы, да здравствует разум!
Ты, солнце святое, гори!
Как эта лампада бледнеет
Пред ясным восходом зари,
Так ложная мудрость мерцает и тлеет
Пред солнцем бессмертным ума.
Да здравствует солнце, да скроется тьма!
 
BUỔI TỐI MÙA ĐÔNG

 

Ngoài trời đầy gió bão
Tuyết lốc quay mịt mù
Khi gầm như mãnh thú
Khi gào như trẻ thơ
Khi xào xạc ống ra
Trên nóc nhà xác xơ
Khi ngập ngừng gõ cửa
Như khách đêm ghé nhờ

Mái lều ta quạnh hiu
Tiêu điều không ảnh lửa
Bà ơi, sao ngồi im
Âm thầm bên sông cửa?
Hay tiếng rít bão dông
Đã làm Người muốn nghỉ?
Hay Người đang mơ mộng
Theo tiếng sa rền rĩ?

Hỡi bạn lòng tri kỷ
Những ngày thơ cơ hàn
Rượu đâu? Ta nâng cốc
Rượu vào nỗi buồn tan
Hát con nghe khúc hát

Có con chim sơn tước
Sống lặng lẽ ngoài khơi
Hát cho con khúc hát
Có cô gái sớm mai
Ra ngoài trời quẩy nước

Ngoài trời đầy gió bão
Tuyết lốc quay mịt mờ
Khi gầm nhw mãnh thú
Khi gào như trẻ thơ
Hỡi bạn lòng tri kỷ
Những ngày thơ cơ hàn
Rượu đâu? Ta mang cốc,
Rượu vào nỗi buồn tan

1825
Thúy Toàn & Hoàng Yến dịch
 


 


 

ЗИМНИЙ ВЕЧЕР
Буря мглою небо кроет,
Вихри снежные крутя;
То, как зверь, она завоет,
То заплачет, как дитя,
То по кровле обветшалой
Вдруг соломой зашумит,
То, как путник запоздалый,
К нам в окошко застучит.

Наша ветхая лачужка
И печальна и темна.
Что же ты, моя старушка,
Приумолкла у окна?
Или бури завываньем
Ты, мой друг, утомлена,
Или дремлешь под жужжаньем
Своего веретена?

Выпьем, добрая подружка
Бедной юности моей,
Выпьем с горя; где же кружка?
Сердцу будет веселей.
Спой мне песню, как синица
Тихо за морем жила;
Спой мне песню, как девица
За водой поутру шла.

Буря мглою небо кроет,
Вихри снежные крутя;
То, как зверь, она завоет,
То заплачет, как дитя.
Выпьем, добрая подружка
Бедной юности моей,
Выпьем с горя; где же кружка?
Сердцу будет веселей.

 

 

DÔNG TỐ

Anh có thấy cô nàng xiêm áo trắng
Trên đỉnh cao giữa sóng nước bao la
Khi, sủi sục trong mịt mù bão lớn
Biển dâng trào đùa bỡn với bờ xa
Khi những tia chớp lòe bừng chiếu sáng
Phủ lên nàng đỏ rực ánh hào quang
Và khi gió thổi vào nàng điên loạn
Làm cuộn bay phấp phới chiếc khăn nàng?
Ôi, biển cả trong mịt mờ bão tố
Và trời mây muôn ánh chớp đẹp sao?
Nhưng tin tôi: cô nàng trên mỏm đá
Đẹp hơn nhiều sóng, bão với trời cao.

1825
Thúy Toàn dịch

 


 

БУРЯ
Ты видел деву на скале
В одежде белой над волнами
Когда, бушуя в бурной мгле,
Играло море с берегами,
Когда луч молний озарял
Ее всечасно блеском алым
И ветер бился и летал
С ее летучим покрывалом?
Прекрасно море в бурной мгле
И небо в блесках без лазури;
Но верь мне: дева на скале
Прекрасней волн, небес и бури.
 
TÔI YÊU EM

Tôi yêu em đến nay chừng có thể
Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai
Nhưng không để em bận lòng thêm nữa,
Hay hồn em phải gợn bóng u hoài

Tôi yêu em âm thầm, không hi vọng
Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen
Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm
Cầu em được người tình như tôi đã yêu em.

1829
Thúy Toàn dịch


 

Я вас любил: любовь еще, быть может,
В душе моей угасла не совсем;
Но пусть она вас больше не тревожит;
Я не хочу печалить вас ничем.
Я вас любил безмолвно, безнадежно,
То робостью, то ревностью томим;
Я вас любил так искренно, так нежно,
Как дай вам бог любимой быть другим.
SẦU CA

Niềm vui tắt của những năm điên dại
Tôi nặng nề nhớ lại, như men rượu ảo mờ...
Như nỗi buồn những ngày đã trôi qua
Càng nung nấu, ngày càng thêm mạnh sức
Đường đời tôi ảm đạm - Biển xao xuyến tương lai

Đêm cho tôi bận bịu với ai hoài

Nhưng tôi không muốn chết, các bạn ơi
Tôi muốn sống để nghĩ suy và đau khổ
Và tôi biết giữa xót xa tột độ
Giữa lo âu và hồi hộp, tôi sẽ được sướng vui:
Lại có lúc tôi uống say những âm điệu bồi hồi
Tôi sẽ lại tràn trề nước mắt trên những hình tượng sinh sôi
Và có thể, vào lúc hoàng hôn buồn thảm của tôi
Tình yêu lại sáng ngời một nụ cười tạm biệt

1830
Xuân Diệu dịch theo bản dịch nghĩa của Thúy Toàn


 

ЭЛЕГИЯ
Безумных лет угасшее веселье
Мне тяжело, как смутное похмелье.
Но, как вино печаль минувших дней
В моей душе чем старе, тем сильней.
Мой путь уныл. Сулит мне труд и горе
Грядущего волнуемое море.

Но не хочу, о други, умирать;
Я жить хочу, чтоб мыслить и страдать;
И ведаю, мне будут наслажденья
Меж горестей, забот и треволненья:
Порой опять гармонией упьюсь,
Над вымыслом слезами обольюсь,
И может быть на мой закат печальный
Блеснет любовь улыбкою прощальной.

 

NHỮNG DÒNG THƠ VIẾT TRONG ĐÊM KHÔNG NGỦ

Tôi thao thức, nến đèn tắt cả
Mộng buồn tênh, tăm tối khắp nơi
Chỉ có tiếng đồng hồ cô lẻ
Vắng đều đều bên cạnh giường tôi
Tiếng chuyện phiếm các nàng tiên nữ
Tiếng bước đời chuột xám chạy qua
Tiếng xao xuyến đêm dài thiếp ngủ...
Có sao ngươi day dứt lòng ta
Có nghĩa gì tiếng thì thào tẻ ngắt?
Lời than vãn hay là lời trách móc
Của một ngày ta đã bỏ trôi qua?
Hay là ngươi muốn đòi hỏi gì ta
Ngươi gọi ta hay là ngươi báo mệnh?
Ta muốn hiểu được ngươi cho tường tận,
Ta muốn dò tìm ý nghĩa trong ngươi.....

1830
Thúy Toàn dịch

 

 

СТИХИ, СОЧИНЕННЫЕ НОЧЬЮ ВО ВРЕМЯ БЕССОННИЦЫ
Мне не спится, нет огня;
Всюду мрак и сон докучный.
Ход часов лишь однозвучный
Раздается близ меня,
Парки бабье лепетанье,
Спящей ночи трепетанье,
Жизни мышья беготня...
Что тревожишь ты меня?
Что ты значишь, скучный шепот?
Укоризна, или ропот
Мной утраченного дня?
От меня чего ты хочешь?
Ты зовешь или пророчишь?
Я понять тебя хочу,
Смысла я в тебе ищу...
 
"Em từ giã"...

Em từ giã dải bờ đất khách
Để trở về chốn cũ xa xôi
Trong giây phút buồn đau nhớ mãi
Đứng trước em anh để mặc lệ rơi
Hai bàn tay của anh lạnh giá
Cố giữ em chẳng muốn để em đi
Anh thổn thức xin em đừng vội vã
Cắt phút giây đau đớn biệt ly

Nhưng làn môi của em vội rứt
Bỏ cái hôn đau khổ xót xa
Em gọi anh về miền đất khác
Bỏ quê hương đầy ải mịt mờ
Em thủ thỉ: ngày mai gặp lại
Dưới bầu trời muôn thuở ngát xanh
Dưới bóng cây ô-liu mát rượi
Ta sẽ hôn nhau lại, hỡi anh!

Mhưng chao ôi, nơi có đầy nắng chói
Vòm trời cao thăm thẳm biếc xanh
Nơi trên nước ô-liu ngả bóng
Em đã yên giấc ngủ ngàn năm
Và nhan sắc, nỗi niềm đau khổ
Mất đi rồi dưới nắp áo quan
Cùng với cả chiếc hôn hội ngộ...
Nhưng anh chờ; còn nợ đó, hỡi em!

1830
Thúy Toàn dịch

Для берегов отчизны дальной
Ты покидала край чужой;
В час незабвенный, в час печальный
Я долго плакал пред тобой.
Мои хладеющие руки
Тебя старались удержать;
Томленье страшное разлуки
Мой стон молил не прерывать.

Но ты от горького лобзанья
Свои уста оторвала;
Из края мрачного изгнанья
Ты в край иной меня звала.
Ты говорила: В день свиданья
Под небом вечно голубым,
В тени олив, любви лобзанья
Мы вновь, мой друг, соединим.

Но там, увы, где неба своды
Сияют в блеске голубом,
Где тень олив легла на воды,
Заснула ты последним сном.
Твоя краса, твои страданья
Исчезли в урне гробовой
А с ними поцелуй свиданья...
Но жду его; он за тобой...

 

 


 
NHỮNG CÂU CHUYỆN THẦN THOẠI NOEL

Hoan hô! Nhà độc tài du đãng
Cưỡi ngựa phi nhanh về nước Nga
Đấng cứu thế khóc ré lên thê thảm
Cả nhân dân theo Chúa khóc òa
Mẹ Maria vội ôm Người nựng nạt:
"Đừng khóc, con, đừng khóc, thiên thần:
Ngáo ộp này - vua Nga - ngáo ộp!"
Vua bước ra dõng dạc truyền rằng
"Hỡi nhân dân của cả nước Nga
Hãy biết rằng toàn thế giới đã biết:
Ta đã may chiến phục cho ta
Theo kiểu nước Áo, theo kiểu Đức
Hãy vui lên, dân chúng, hãy vui lên
Ta no, ta khỏe, ta béo tròn
Bọn viết báo ngợi ca ta trên báo
Ta uống, ta ăn, ta hứa hão
Và việc công ta chẳng nhọc nhằn

Hỡi nhân dân, hãy biết thêm rằng
Rồi mai kia ta còn quyết định
Đưa tên Laprôp về hưu
Tống cổ tên Xôt đi chữa bệnh
Thay tên Gotgon bằng luật hình
Và rủ lòng từ bi của kẻ quyền binh
Cho con người quyền của chính mình

Đứa bé vui sướng quá
Bỗng nhẩy cẫng trên giường
"Điều đó có thực chăng,
không đùa, chứ mẹ?"
Bà mẹ vỗ về bé:
"À ơi, nhắm mắt đi
Được vua kể cho nghe
Chuyện thần thoại hay tuyệt
Thôi ngủ đi, ngủ đi!"


 


 

СКАЗКИ NOËL
Ура! в Россию скачет
Кочующий деспот.
Спаситель горько плачет,
За ним и весь народ.
Мария в хлопотах Спасителя стращает:
Не плачь, дитя, не плачь, сударь:
Вот бука, бука русский царь!
Царь входит и вещает:

Узнай, народ российский,
Что знает целый мир:
И прусский и австрийский
Я сшил себе мундир.
О радуйся, народ: я сыт, здоров и тучен;
Меня газетчик прославлял;
Я пил, и ел, и обещал
И делом не замучен.

Послушайте в прибавку,
Что сделаю потом:
Лаврову дам отставку,
А Соца в желтый дом;
Закон постановлю на место вам Горголи,
И людям я права людей,
По царской милости моей,
Отдам из доброй воли.

От радости в постеле
Запрыгало дитя:
Неужто в самом деле?
Неужто не шутя?
А мать ему: Бай-бай! закрой свои ты глазки;
Пора уснуть уж наконец,
Послушавши, как царь-отец
Рассказывает сказки.

 

GỬI TSAAĐAEP

Sự bịp bợm của tình, mơ, danh vọng
Mơn trớn ta chẳng được bao lâu
Những trò vui ngày thơ thoáng bóng
Như mộng đêm, như sương sớm tan mau,
Nhưng hoài bão trong ta còn cháy rực
Cả hồn ta náo nức chờ mong
Nóng lòng nghe tiếng gọi của núi sông
Sống quằn quại dưới chính quyền hung bạo
Trong hi vọng dày vò ta trông ngóng
Những phút giây giải phóng thiêng liêng
Như chàng trai si tình trẻ tuổi
Đợi phút giây hò hẹn trung thành
Khi trong ta lửa tự do rực cháy
Khi tim ta còn sống cho thanh danh
Người bạn hỡi, hiến dâng cho tổ quốc
Những ngọn triều kỳ diệu của lòng anh
Hỡi đồng chí, hãy vững lòng tin tưởng
Sao hạnh phúc nguy nga rồi hiện sáng
Cả nước Nga sẽ bừng tỉnh cơn mê
Ngày mai đây hậu thế viết tên ta
Trên đống vụn của chính quyền độc đoán 

1818
Thúy Toàn dịch


 


 

К ЧААДАЕВУ
Любви, надежды, тихой славы
Недолго нежил нас обман,
Исчезли юные забавы,
Как сон, как утренний туман;
Но в нас горит еще желанье,
Под гнетом власти роковой
Нетерпеливою душой
Отчизны внемлем призыванье.
Мы ждем с томленьем упованья
Минуты вольности святой,
Как ждет любовник молодой
Минуты верного свиданья.
Пока свободою горим,
Пока сердца для чести живы,
Мой друг, отчизне посвятим
Души прекрасные порывы!
Товарищ, верь: взойдет она,
Звезда пленительного счастья,
Россия вспрянет ото сна,
И на обломках самовластья
Напишут наши имена!
 
Chaadaev là ai? Tên đầy đủ là Chaadaev Piotr Yakovlevitch (1794-1856) là nhà thơ và nhà triết học Nga, bạn thân của Puskin.Từ năm 1821 là thành viên của Hội tháng Chạp bí mật.Sau cuộc khởi nghĩa của những người Tháng Chạp nổ ra Chaadaev giữ vị trí của một người khai sáng, đưa ra các biện pháp đấu tranh cách mạng.Bài thơ này đã bị thay đổi nhiều chỗ và được in trong tập Ngôi sao phương Bắc năm 1829 mà không có sự đồng ý của Puskin.

          ------------------------------------------

Tsaađaep (1794 - 1856) là một sĩ quan tiến bộ trong quân đội Sa hoàng. Ông là nhà văn, nhà triết học, tác giả cuốn "Những lá thư triết lý" (1836), vạch trần những xấu xa của chế độ quân chủ dưới triều vua Nhicôlai. Sau khi cho in "Lá thư triết lý thứ nhất" trên báo "Viễn Kính" năm 1836, ông bị chính quyền vu là loạn trí và buộc ông không được ra khỏi nhà dưới sự trông nom của thầy thuốc trong vòng một năm (một hình thức quản thúc).

Ngay từ khi còn học trung học Puskin đã quen Tsaađaep. Đặc biệt giai đoạn ở Saint Peterburg (1817 - 1820), Puskin càng gần gũi và năng đi lại với Tsaađaep hơn. Những quan điểm cách mạng, lòng têu nước nồng nàn, học thức cao rộng của Tsaađaep đã cảm hóa được nhà thơ trẻ. Đối với Puskin, Tsaađaep là tấm gương biểu lộ lòng trung thành với những tư tưởng giải phóng. Puskin rất tôn trọng và gìn giữ tình bạn giữa mình và Tsaađaep. Trong sáng tác, Puskin có tới ba bài thơ gửi riêng cho Tsaađaep. Nhà thơ đã từng gọi Tsaađaep là "hiền nhân", là "người bạn tri kỷ" (Gửi Tsaađaep, 1820)

Gửi Tsaađaep là một trong những sáng tác thể hiện rõ những quan điểm cách mạng của Puskin từ năm 1817 trở đi. Tác phẩm này được chép tay và truyền đi rộng rãi, trở thành võ khí tuyên truyền rất mạnh của các tổ chức cách mạng bí mật. Ngay sau cuộc khởi nghĩa tháng Chạp thất bại bài thơ vẫn có nhiều tác dụng. Những người tham gia khởi nghĩa bị đi đày đã lấy hai câu thơ sau trong bài này khắc vào tấm huy hiệu nhỏ đeo trên ngực:

"Hỡi đồng chỉ hãy vững lòng tin tưởng:
Sao hạnh phúc nguy nga rồi hiện sáng"

Lần đầu tiên Gửi Tsaađaep in năm 1829, nhưng chỉ có 13 câu, mà lại sai sót rất nhiều. Toàn bài in năm 1856 ở Luân Đôn, ở Nga năm 1906 (nghĩa là 88 năm sau khi Puskin sáng tác).

 Phần1,2.

Используются технологии uCoz